Dẫn chứng về những nữ anh hùng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc hay nhất
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không thể không kể đến bóng dáng của những vị anh hùng hào kiệt là phụ nữ. Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ luôn ghi đậm dấu ... xem thêm...ấn sáng ngời của những nữ anh hùng bất khuất, không chấp nhận kiếp sống nô lệ và đã anh dũng đứng lên chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Dưới đây list.vn chia sẻ với bạn đọc những nữ anh hùng tiêu biểu nhất
-
Chị Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1933 (có tài liệu ghi năm 1935), quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống cách mạng, chứng kiến cảnh thực dân Pháp đàn áp, bóc lột đồng bào, tàn phá quê hương, chị sớm có lòng căm thù giặc. 12 tuổi, chị được anh trai giác ngộ và theo anh trốn lên chiến khu giúp cách mạng. Qua nhiều lần thử thách, chị được kết nạp vào Đội công an xung phong Đất Đỏ lúc 14 tuổi. Chị đã dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ được giao như: giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng.
Năm 1948, chị tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng, rồi cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỷ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức, và trực tiếp tiêu diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tại phiên chợ tết năm 1950, trong khi ném lựu đạn vào tốp lính ngụy tại chợ Đất Đỏ, chị bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, bị giặc tra tấn dã man, chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa. Ngày 21/1/1952, chị bị đày ra Côn Đảo với số tù 6267 và bị giam riêng ở Sở Cò. Chị Sáu là nữ tù nhân đầu tiên và trẻ nhất tại Côn Đảo. Sau những chiến công tiêu diệt kẻ địch, cùng với chí khí kiên cường khi bị bắt, chị Sáu đã làm khiếp vía kẻ địch. Cho dù bị tra tấn dã man, chị cũng không hề khai báo, luôn lớn tiếng chất vấn lại luật sư và cha cố khi đụng chạm tới lý tưởng cách mạng. Ngay tại đêm trước khi lĩnh án tử, chị Sáu đã giơ tay thề trước lá cờ Đảng và trở thành người nữ đảng viên trẻ tuổi nhất vào đầu năm 1952. Và đúng sáng hôm sau, ngày 23/1/1952, chúng bí mật đưa chị ra pháp trường xử bắn.
Anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu, một người con trung hiếu của dân tộc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường trong chiến đấu, bất khuất bảo toàn khí tiết trong lao tù, anh dũng lạc quan trước mũi súng quân thù.
-
Bà Nguyễn Thị Bình quê ở Quảng Nam nhưng được sinh ra (năm 1927) tại Sa Đéc - Đồng Tháp. Bà tham gia phong trào đấu tranh cách mạng từ 1945 và trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào Phụ nữ cứu quốc Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào học sinh sinh viên, phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình của giới trí thức ở miền Nam.Những chức vụ mà Bà đã trải qua như: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam (1960); Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; Trưởng phái đoàn đàm phán tại Hội nghị quốc tế Paris về Việt Nam, kí kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nước CHXHCN Việt Nam (1976-1987), Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam (1992).v
Vốn được sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng với bản tính thông minh, duyên dáng, lại có tài thuyết phục, Nguyễn Thị Bình rất thành công trong hoạt động ngoại giao.
Bà được biết đến là một trong những nhân vật chủ chốt trong Hội nghị Paris. Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973) được coi là một trong những cuộc thương thuyết kéo dài nhất trong lịch sử thế giới. Khi đó, bà là trưởng phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị bốn bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris giai đoạn 1968-1973. Khi tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia và bạn bè quốc tế, bà đã để lại ấn tượng tốt đẹp cũng như tuyên truyền, vận động được nhiều nước trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh đòi hòa bình giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của Nhân dân Việt Nam. Với vai trò là “sứ giả hòa bình”, bà đã có những đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc. Hiệp định Paris đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
-
Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh - Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước lại được theo học quốc ngữ từ nhỏ, năm 16 tuổi chị đã tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1927 chị gia nhập Đảng Tân Việt, lấy bí danh là Minh Khai. Sau đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, tổ chức huấn luyện đào tạo cán bộ cho Đảng, làm nòng cốt cho cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh.
Từ 1930 đến 1935, chị được tổ chức đưa ra nước ngoài học tập và hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản và tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 ở Mát-xcơ-va, chị là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phát biểu tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và bảo vệ hòa bình. Năm 1937 chị trở về nước và được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, lãnh đạo các cơ sở cách mạng và Nhân dân đấu tranh. Năm 1940, giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh mẽ thì chị bị địch bắt giam tù đày tra tấn rất dã man và bị chúng kết án tử hình nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của một chiến sĩ cộng sản. Chị hy sinh lúc mới 31 tuổi nhưng tên tuổi và sự nghiệp cách mạng cao quý của chị vẫn mãi được Nhân dân tưởng nhớ và lịch sử khắc ghi.
-
Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi Cô Ba Định) - người từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào nói: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”. Bà sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Thị Định đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và tham gia vận động quần chúng đấu tranh. Hai năm sau bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích - Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Nhưng không lâu sau đó, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Gửi con còn nhỏ cho mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia hoạt động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, đến lượt bà bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8/1945.
Tuy ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “Đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ - Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài "tố cộng, diệt cộng", đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên "ấp chiến lược". Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”.
Do lực lượng quân địch ở Bến Tre đông và ngoan cố, lại được sự chi viện của chính quyền bù nhìn Sài Gòn, cuộc nổi dậy bước đầu gặp rất nhiều khó khăn. Nguyễn Thị Định đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ra những cách đánh phù hợp với tình hình. Quân ta thua thiệt về súng đạn, thì kết hợp thêm vũ khí thô sơ, giáo mác, gậy gộc. Khi thua thiệt về quân số thì hoạt động nghi binh, giả làm bộ đội chủ lực để gây hoang mang cho địch… Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam. Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.
Lần đầu tiên, hơn năm nghìn phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.
Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.
Từ chiếc nôi Đồng Khởi, “Đội quân tóc dài” đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…
Từ đó, "Đội quân tóc dài" đã phát triển rộng khắp và đóng một vai trò quan trọng, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng miền Nam, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước; làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người Phụ nữ Việt Nam.
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam. Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công. Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.
-
Trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1946 đến năm 1952, đồng chí tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch. Đồng chí đã diệt, làm bị thương và bắt 15 địch. Tháng 4/1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, đồng chí bị địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh đich trên đường 39, đồng chí bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên địch, thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, đồng chí chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 địch có một tên Trung uý.
Đồng chí Nguyễn Thị Chiên được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, 02 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Năm 1952, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng khẩu súng ngắn của Người. Ngày 19/5/1952, đồng chí được bầu là chiến sỹ thi đua toàn quốc, được Nhà nước Việt dân chủ cộng hoà tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyễn Thị Chiên là người phụ nữ Việt đầu tiên được Nhà nước ta được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sau kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thị Chiên công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô, được phong quân hàm Trung tá năm 1984.